1. Chôn lấp
- Hầu như các đô thị đều sử dụng phương pháp chôn lấp CTR là chủ yếu. Tuy nhiên, chỉ có 15/64 tỉnh/thành phố có bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Theo thống kê có 149 bãi rác cũ không hợp vệ sinh (21 bãi cấp tỉnh/thành phố và 128 bãi cấp huyện/thị trấn). Năm 2006, cả nước có 98 BCL CTR đang hoạt động, trong đó chỉ có 16/98 BCL VS, 82/98 BCL không hợp vệ sinh, chỉ là những bãi tự nhiên hoặc hoạt động không hiệu quả.
- Về thực chất, đa số BCL CTR đó chỉ đơn thuần là nơi đổ rác, chưa được quy hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành đúng theo quy định BCLVS: vị trí gần khu dân cư (cách 200 – 500m, thậm chí có bãi chỉ cách 100m); không có lớp chống thấm ở thành và đáy ô chôn lấp; không có hệ thống thu gom và xử lý nước rác, khí rác nên đã gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và hệ sinh thái, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Chính vì vậy, trong 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải tập trung xử lý triệt để (theo Quyết định 64/2003/QĐ – TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ) có 52 BCL CTR.
- Tình trạng chôn lấp chung CTR y tế và công nghiệp nguy hại chưa qua xử lý với CTR sinh hoạt còn phổ biến ở nhiều đô thị.
- Nhiều đô thị gặp khó khăn về địa điểm và quỹ đất xây dựng BCL.Gần đây, một số đô thị đã xây dựng BCL CTRVS, bước đầu hoạt động có hiệu quả, điển hình là BCL Nam Sơn (Hà Nội), Khánh Sơn 2 (Đà Nẵng)…
Ưu điểm: Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh là phương pháp rẻ tiền, đang được sử dụng nhiều ở Việt Nam
Nhược điểm: Tuy nhiên việc chôn lấp chưa đạt yêu cầu vệ sinh môi trường hoặc được xem là hợp vệ sinh thì vấn đề xử lý nước rỉ từ các vết rách, mối nối phát sinh trong quá trình thi công cũng là vấn đề đáng quan tâm.Phương pháp này chiếm nhiều diện tích đất, không phù hợp với hướng đô thị hóa hiện nay.
2. Chế biến phân vi sinh (compost)
- Nước ta hiện có hơn 10 nhà máy chế biến rác thải hữu cơ thành phân bón vi sinh. Các nhà máy này thường thực hiện ở các thành phố lớn nhưng với quy mô và công suất nhỏ. Đó là nhà máy chế biến rác thải Cầu Diễn (Hà Nội) với công suất xử lý 50.000 tấn rác/năm (công nghệ Tây Ban Nha); Nhà máy xử lý rác thải Nam Định với công suất xử lý 250 tấn/ngày (công nghệ Pháp); công nghệ Dano – Đan Mạch tại Hoóc Môn, TP HCM công suất 240 tấn/ngày; Nhà máy xử lý rác thải Hải Phòng với công suất 200 tấn/ngày… Ngoài ra, một số đô thị khác như Việt Trì, Vinh, Sơn Tây, Huế, Ninh Thuận… cũng có nhà máy xử lý rác thành phân bón, nhựa tái sinh, vật liệu xây dựng hoàn toàn do Việt Nam tự nghiên cứu và chế tạo.
- Chất lượng phân bón của nhà máy chế biến rác thải Cầu Diễn (Hà Nội) do Tây Ban Nha và Nam Định do Pháp đầu tư được đánh giá tốt. Đối với phân bón hữu cơ do các nhà máy của Việt Nam nghiên cứu chế tạo đang trong thời kỳ thử nghiệm với kết quả khả quan.
Ưu điểm: Phương pháp này được xem là phương pháp an toàn với môi trường, chiếm ít diện tích hơn phương pháp chôn lấp, loại trừ được 50% lượng CTR đô thị phát sinh mà chủ yếu là rác hữu cơ dễ bị phân hủy nhanh gây ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí, sản phẩm ra không độc hại, giảm được lượng phân hóa học sử dụng chăm sóc cây trồng, nước rỉ rác sinh ra trong quá trình ủ được thu gom sử dụng lại ( tưới vào ngăn phối trộn hặc ngăn ủ) nên không gây ô nhiễm.
Nhược điểm: Nhưng khi áp dụng gặp nhiều khó khăn như: đầu ra của phân compost,..
3. Thiêu đốt
Ngoài công nghệ thiêu đốt CTR nguy hại từ công nghiệp tại khu liên hợp xử lý CTR Nam Sơn (Hà Nội), hiện nay nước ta chỉ sử dụng công nghệ thiêu đốt đối với CTR y tế. Tính đến năm 2003, cả nước có 61 lò đốt CTR y tế, trong đó:
– 14 lò sản xuất trong nước, các lò khác đều nhập từ nước ngoài.
– 3/61 lò đốt có thiết bị xử lý khí thải (nhưng chỉ có hai lò đốt vận hành thiết bị xử lý khí thải).
– 2/61 lò dốt công suất lớn sử dụng chung (công suất > 1 tấn/ngày) được đặt bên ngoài bệnh viện; các lò đốt khác đều đặt trong khuôn viên bệnh viện.
Tại thành phố Hà Nội, ngoài lò đốt chất thải y tế tập trung ở Cầu Diễn (công suất 3,2 tấn/ngày) và một số lò đốt riêng của một số bệnh viện, còn có lò đốt CTR công nghiệp nguy hại (công suất 150 kg/giờ) đã hoạt động từ năm 2003.
Ưu điểm: Phương pháp này là giảm được thể tích và khối lượng, của chất thải đến 70 – 90% so với thể tích chất thải ban đầu. (Giảm một cách nhanh chóng, thời gian lữu trữ ngắn)
– Có thể đốt tại chỗ không cần phải vận chuyển đi xa
– Nhiệt tỏa ra của quá trình đốt có thể sử dụng cho các quá trình khác.
– Kiểm soát được ô nhiễm không khí, giảm tác động đến môi trường không khí
– Có thể sử dụng phương pháp này để xử lý phần lớn các chất thải hữu cơ nguy hại.
– Yêu cầu diện tích nhỏ hơn so với phương pháp xử lý bằng sinh học và chôn lấp.
– Ô nhiễm nước ngầm ít hơn đối với phương pháp xử lý bằng chôn lấp.
– Xử lý triệt để các chỉ tiêu ô nhiễm của chất thải rắn.
– Giảm thể tích tối đa sau khi xử lý, cho nên tiết kiệm được diện tích chôn.
– Tro thải ra sau khi đốt thường là những chất trơ
Nhược điểm:
– Vận hành dây chuyền phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật và tay nghề cao
– Chi phí đầu tư ban đầu lớn
– Không phải mọi chất thải đều có thể đốt được
– Phải bổ sung nhiên liệu cho quá trình đốt
– Một số sản phẩm phụ tạo ra trong quá trình đốt
Những chất đốt được: dung môi, dầu thải, bùn dầu, chất thải bệnh viện, dược phẩm quá hạn, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), các loại chất dẽo, cao su, sơn, keo, các hợp chất PVCs, PCBs (poly chlorinated biphenyl).
Những chất không nên đốt: là các chất không cháy được, chất thải phóng xạ, chất thải dễ nổ,..
4. Tái chế / tái sử dụng
Ngoài chế biến rác hữu cơ thành phân bón, các thành phần khác (như nilon, nhựa, cao su…) cũng được chế biến thành hạt nhựa, ống cống và vật liệu xây dựng tại một số nhà máy. Đa số các thành phần kim loại, nhựa, nilon, giấy, thuỷ tinh, cao su… có trong rác thải (khoảng 20% CTR) được lực lượng “đồng nát” thu mua và đưa đi tái sử dụng/tái chế tại các làng nghề.
5. Các công nghệ khác (do Việt Nam nghiên cứu, chế tạo)
Trong vài năm gần đây, nước ta xuất hiện một số công nghệ xử lý CTR do Việt Nam tự nghiên cứu, chế tạo. Đáng kể là:
– Bộ Quốc phòng và Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Xuân Kiên nghiên cứu chế tạo lò đốt CTR y tế với công suất nhỏ.
– Công ty Cổ phần Môi trường xanh nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành phân Compost theo công nghệ Seraphin tại Đông Vinh (thành phố Vinh – Nghệ An) và tại Sơn Tây (Hà tây cũ).
Là tổ hợp của 3 công nghệ Công nghệ xé, tách và tuyển rác; công nghệ ủ vi sinh; công nghệ tái chế đối với vật liệu chất dẻo và các phế thải. Việc tận dụng nilon, nhựa từ rác thải là hết sức cần thiết, đây chính là thành phần không phân huỷ, hạn chế sự phân huỷ cácthành phần khác khichônlấp.
Chất lượng phân bón hữu cơ của các nhà máy xử lý rác làm phân bón hữu cơ compost trong cả nước nói chung, của công nghệ Seraphin nói riêng, do chất lượng nguyên liệu đầu vào thấp do lẫn nhiều tạp chất và các loại rác không phân huỷ dược. Nên việc xử lý rác làm phân compost chỉ có thể thành công khi việc phân loại rác tại nguồn được thực hiện. Phân loại rác tại nguồn là sự đảm bảo cho chất lượng của nguyên liệu đầu và, dẫn đến tăng chất lượng sản phẩm chế biến. Việc phân loại rác tại nguồn, còn làm giảm chi phí trong quá trình xử lý rác sản xuất phân compost, đặc biệt kiểm soát được các thành phần hoá học và các chất gây hại cho cây trồng.
– Công ty Cổ phần Tâm Sinh Nghĩa – ASC nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành phân compost theo công nghệ An Sinh (ASC) tại Thuỷ Phương (Huế)
– Công ty TNHH Thuỷ lực máy nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt thành nhiên liệu đốt dân dụng và công nghiệp theo công nghệ MBT – CD – 08 tại thị trấn Đồng Văn (huyện Duy Tiên – Hà Nam).
Trong đó, ý tưởng công nghệ và loại sản phẩm tạo ra của ASC và Seraphin là giống nhau; chỉ khác nhau về trang thiết bị máy móc và chất lượng sản phẩm. Riêng sản phẩm của công nghệ MBT – CD – 08 linh hoạt hơn (có thể tạo ra phân bón hoặc nhiên liệu đốt).